Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Đang hiển thị bài đăng từ tháng 11 30, 2013

Con chim không biết bay

Vua Ả Rập Xê-út Được ông bạn châu Phi Tặng một con chim quí, Hiếm và đẹp cực kỳ. Có điều con chim ấy, Quí và hiếm vô cùng, Từ khi đem về nước Và được đưa vào cung, Nó chỉ ngồi một chỗ, Ủ rũ trên cành cây. Ăn và ngồi một chỗ, Lười biếng không chịu bay. Chim khi bay mới đẹp. Nên vua không tiếc tiền Mời người đến đàn hát, Nó vẫn cứ ngồi yên. Cả pháp sư, vũ nữ Và những tiếng vỗ tay Cũng không thể làm nó Một lần cất cánh bay. Cuối cùng, thử hết cách, Một quan lớn đại thần Cho người sang làng cạnh Mời một bác nông dân. Lát sau, vua hậm hực Như mọi lần, ra ngoài, Chợt thấy con chim quí Bay lượn trên đầu ngài. Đúng là nó tuyệt đẹp, Lông sặc sỡ nhiều màu, Lúc bay cao, lúc thấp, Xòe đuôi rồi nghiêng đầu. Vua ngạc nhiên, liền hỏi: “Ai bắt được nó bay?” Bác nông dân cúi lạy Rồi đáp lại thế này: “Bẩm con, tâu bệ hạ. Thực tình đơn giản thôi: Con chỉ lấy dao chặt Cành cây nó đang ngồi!” * Ta, con người, thực tế, Được sinh ra để bay, Thế mà ta lười biếng, Ngồi một chỗ suốt ngày. Ta bỏ nhỡ cơ hội Chỉ v

Hòn đá giữa đường

Một bác nông dân nọ, Trời chưa sáng, đầy sương, Đi chợ, vấp hòn đá Nằm ngay chính giữa đường. “Hòn đá lớn như thế, Ai để đây, làm gì? Vấp ngã nguy hiểm lắm.” Ông cằn nhằn, rồi đi. Buổi tối, bà bán sữa Vấp phải hòn đá này. Bà đã né tránh nó Khi nhìn thấy ban ngày. Bà nguyền rủa hòn đá, Vội vã tránh ra xa, Rồi gánh sữa đi tiếp, Bực mình đến tận nhà. Suốt mấy ngày hòn đá Nằm chềnh ềnh giữa đường. Nhiều người thấy, né tránh, Nhiều người vấp, bị thương. Ai cũng nguyền rủa nó, Thế mà rồi không ai Chịu khó cúi xuống đẩy, Hay kéo nó ra ngoài. Cuối cùng, một giáo sĩ Vừa giảng đạo làng bên, Nhìn thấy, xắn tay áo, Kéo nó sang một bên. Xong, ông thấy mảnh giấy Chỗ hòn đá, giữa đường: “Vì việc làm tốt ấy, Con sẽ lên thiên đường.” Ông giáo sĩ quỳ lạy, Tạ ơn Đức A-la, Rồi khăn gói đi tiếp, Vui cho đến tận nhà. * Nói, ai cũng nói được, Mà thường nói rất hay. Làm mới thực sự khó. Xấu tốt ở chỗ này. Thái Bá Tân

Thay vợ làm đàn bà

Có một anh chồng nọ Than trách đời đắng cay, Rằng cứ phải đều đặn Đến công sở hàng ngày. Rằng làm đàn ông khổ, Vì là anh chủ nhà, Mọi việc phải lo nghĩ, Không sướng như đàn bà. Và rồi một tối nọ, Anh cầu chúa ban ơn Cho được đổi làm vợ, Hy vọng sống nhàn hơn. Chúa động lòng trắc ẩn, Hứa sẽ giúp anh ta. Thế là anh chồng ấy, Sáng dậy thành đàn bà. Trời còn chưa sáng hẳn, Anh đã ra khỏi phòng, Xuống bếp làm bữa sáng Cho con và cho chồng. Rồi quét tước, giặt dũ, Rồi rửa bát, lau nhà, Trăm thứ việc vặt vãnh, Vốn chức phận đàn bà. Rồi cuống cuồng chuẩn bị Đưa thằng con đến trường. Rồi phải vào siêu thị Mua bánh, bơ và đường. Rồi thuê người cắt cỏ Cả trước và sau nhà. Rồi gặp trưởng khu phố, Rồi tưới mấy bồn hoa. Làm chưa hết công việc, Loáng một cái, tối ngày. Lại hùng hục vào bếp, Cứ luôn chân, luôn tay. Rồi loáng một cái nữa, Đã mười một giờ đêm. Mệt rã rời, muốn ngủ, Chồng lại đòi tòm tem… Ôi khốn nạn, khốn khổ Cái thân phận đàn bà. Sau một ngày “trải nghiệm”, Bây giờ mới hiểu ra. Lén, kh